Suốt đời kiên cường đấu tranh cho lý tưởng cộng sản, cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, tên tuổi và sự nghiệp của Tổng Bí thư Lê Duẩn mãi mãi được ghi vào lịch sử vẻ vang của Đảng, của dân tộc và là tấm gương sáng, vĩ đại cho các lớp con cháu noi theo.
Đồng chí Lê Duẩn (tên khai sinh là Lê Văn Nhuận) sinh ngày 7/4/1907, ở làng Bích La Đông, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân từ một gia đình lao động, có truyền thống yêu nước, đồng chí Lê Duẩn đã sớm giác ngộ cách mạng. Đồng chí thuộc lớp người đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi theo con đường cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đồng chí tham gia phong trào yêu nước từ năm 1925, hoạt động trong Hội Thanh niên cách mạng từ năm 1928. Đến năm 1930, đồng chí trở thành một trong những đảng viên lớp đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1931, khi đang là Ủy viên Ban Tuyên huấn Xứ ủy Bắc Kỳ, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, kết án 20 năm tù và bị giam giữ ở các nhà lao Hỏa Lò, Sơn La, Côn Đảo. Tại các nhà tù, đồng chí cùng nhiều đảng viên cộng sản đã lãnh đạo các cuộc đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù và tổ chức học tập, truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho anh em trong lao tù.
Năm 1936, do cuộc đấu tranh của Nhân dân ta có bước phát triển mới và thắng lợi của mặt trận nhân dân ở Pháp, chính quyền thực dân ở Đông Dương buộc phải trả lại tự do cho nhiều chiến sĩ cách mạng Việt Nam, trong đó có đồng chí Lê Duẩn. Ra tù, đồng chí tham gia hoạt động xây dựng phong trào cách mạng ở các tỉnh miền Trung, có công lao to lớn chỉ đạo xây dựng lại đảng bộ các tỉnh miền Trung bị tan rã; khôi phục Xứ ủy Trung Kỳ; phát động mạnh mẽ phong trào cách mạng của quần chúng thành cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ; xúc tiến thành lập mặt trận dân chủ hầu khắp các tỉnh Trung Bộ. Năm 1937, đồng chí được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ.
Năm 1939, đồng chí Lê Duẩn được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng và đã cùng đồng chí Nguyễn Văn Cừ - Tổng Bí thư của Đảng chủ trì Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương (11/1939), chuẩn bị những điều kiện cần thiết tiến tới giành chính quyền về tay Nhân dân. Năm 1940, đồng chí bị địch bắt ở Sài Gòn, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo lần thứ hai. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền và tham gia cuộc kháng chiến Nam Bộ.
Từ năm 1946, đồng chí được ra Hà Nội làm việc bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuối năm đó, đồng chí được Bác Hồ và Trung ương Đảng cử vào lãnh đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng năm 1951, đồng chí được bầu vào BCH Trung ương và Bộ Chính trị. Từ năm 1946-1954, với cương vị là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, rồi Bí thư Trung ương Cục miền Nam, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ.
Để chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, từ năm 1948 đến đầu năm 1950, đồng chí dồn tâm huyết viết “Một số ý kiến về kiểm điểm chính sách của Đảng và về các dự án, chủ trương của Trung ương” để gửi Đại hội. Tài liệu này đề cập nhiều vấn đề về lý luận từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Sau gần hai năm làm việc bên cạnh Bác Hồ ở Việt Bắc, cùng Tổng Bí thư Trường Chinh và Bộ Chính trị chỉ đạo mọi mặt cho Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí Lê Duẩn trở lại miền nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ, tiếp theo là Hội nghị Geneva họp bàn biện pháp giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương, chia cắt Việt Nam thành hai miền, đồng chí Lê Duẩn nhận chỉ thị đi gấp vào Nam Bộ, tổ chức công tác chuyển quân, xây dựng lực lượng cách mạng. Gặp đồng chí Nguyễn Chánh, Bí thư Khu ủy Khu V, đồng chí dặn lại: “Phải chôn giấu vũ khí, đưa người và vũ khí lên xây dựng một số căn cứ ở Tây Nguyên, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc chiến đấu mới”.
Nhận rõ khó khăn của nhân dân miền nam trước kẻ thù mới, đồng chí Lê Duẩn xin Bác Hồ được ở lại sát cánh cùng đồng bào, đồng chí miền nam. Trên chuyến tàu cuối cùng ra Bắc, đồng chí ôm hôn đồng chí Lê Đức Thọ và nói: “Anh ra thưa với Bác là tất cả đồng bào, đồng chí ở trong này đều mong Bác sống lâu, mạnh khỏe. Cho tôi gửi lời chào Bác, anh Trường Chinh và tất cả các anh ngoài đó. Tình thế này thì dễ đến mười tám, hai mươi năm nữa anh em ta mới lại gặp nhau”.
Đúng như đồng chí Lê Duẩn dự báo, sau hai năm thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Geneva, cách mạng miền nam bị tổn thất vô cùng to lớn. Đẫm mình trong thực tiễn đau thương, mất mát, cách mạng như không có đường ra. Tháng 8/1956, đồng chí Lê Duẩn hoàn thành “Đề cương cách mạng miền nam” gửi ra Trung ương. Từ sự phân tích sâu sắc về bản chất của kẻ thù và qua những năm tháng trực tiếp chỉ đạo phong trào quần chúng, đồng chí khẳng định: nhân dân ta ở miền Nam chỉ có một con đường là vùng lên chống lại Mỹ-Diệm để cứu nước và tự cứu mình. Đó là con đường cách mạng. Ngoài con đường đó, không có con đường nào khác.
Trong bối cảnh quốc tế không thuận lợi cho cách mạng Việt Nam, hòa hoãn giữa các nước lớn, “thi đua hòa bình”, “trường kỳ mai phục”, “sợ đốm lửa nhỏ gây ra cháy lớn” ảnh hưởng không ít đến nội bộ Đảng. Giữa năm 1957, Bác Hồ quyết định điều đồng chí Lê Duẩn ra bắc, cùng Bác và Bộ Chính trị chuẩn bị Hội nghị Trung ương 15 và Đại hội Đảng toàn quốc. “Đề cương cách mạng miền Nam” trở thành cơ sở cho Nghị quyết 15 và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Từ năm 1954-1957, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đồng chí Lê Duẩn được Trung ương phân công ở lại miền Nam để lãnh đạo phong trào cách mạng. Năm 1960, tại Đại hội lần thứ III, đồng chí tiếp tục được bầu vào BCH Trung ương, Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư Thứ nhất. Trong suốt 15 năm trên cương vị này, những tư tưởng chỉ đạo của đồng chí đã góp phần quan trọng để Đảng ta giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, đưa cả nước tiến lên xây dựng CNXH.
Trên cương vị Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bước vào cuộc trường chinh thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trên cả nước. Nhưng là người được Bác Hồ và Bộ Chính trị phân công giữ vai trò chủ chốt, “có trách nhiệm đề đạt ý kiến” về cách mạng miền nam, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn dồn tâm sức cho sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Trong quá trình diễn biến của cuộc kháng chiến, cùng các đồng chí khác trong Bộ Chính trị, đồng chí Lê Duẩn đã góp phần to lớn vào việc bổ sung, phát triển, cụ thể hóa và hoàn thiện dần đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam; đặc biệt là phương pháp cách mạng và tư duy độc lập tự chủ, nhìn xa trông rộng.
Trong thư đầu tiên, ngày 7/2/1961, gửi đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) và các đồng chí Nam Bộ, Lê Duẩn viết: “Khi còn ở miền Nam, trong những lần thảo luận về đường lối cách mạng miền Nam với các đồng chí, tôi đã nhận định rằng cách mạng miền Nam không tiến hành bằng cách trường kỳ đấu tranh vũ trang, lấy nông thôn bao vây thành thị, tiến lên dùng lực lượng quân sự giải phóng toàn bộ đất nước như Trung Quốc đã làm, mà đi con đường của Việt Nam”.
Trong thư gửi đồng chí Mười Cúc và Trung ương Cục miền nam, tháng 7/1962, Lê Duẩn viết: “Hiện nay, cách mạng miền Nam đang ở giai đoạn đầu. Mặc dù vậy, cuộc đấu tranh đã trở nên rất quyết liệt. Vì nó phản ánh cuộc đối đầu giữa hai thế lực, cách mạng và phản cách mạng của thời đại, phản ánh cuộc tranh chấp gay go nhất, phức tạp nhất trên thế giới hiện nay”. Từ thực tiễn thắng lợi của cách mạng Lào, cũng trong thư này, đồng chí khẳng định: “Đế quốc Mỹ phải thua nhưng có thể thua đến mức nào, ta phải thắng nhưng có thể thắng đến mức nào; đó là điều phải tính toán, đo lường cho chuẩn xác... Nhiệm vụ cách mạng trên thế giới là phải giữ gìn hòa bình, ngăn ngừa đế quốc gây chiến tranh, bảo đảm an ninh cho nhân dân các nước, đồng thời phải đẩy mạnh đấu tranh, đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc. Hai mặt đó quan hệ khăng khít với nhau”.
Biết thắng từng bước là cách nhìn khoa học về so sánh lực lượng và mục tiêu cách mạng, nhưng trong thư gửi đồng chí Xuân (Nguyễn Chí Thanh), tháng 2/1965, Lê Duẩn lại nhấn mạnh: “Trước sau phương châm chiến lược của ta vẫn là: Chiến đấu lâu dài và ra sức tranh thủ thời cơ”. Để đón thời cơ, phải nỗ lực chủ quan, chuẩn bị lực lượng, cả ở hậu phương và tiền tuyến. Thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968, làm lung lay ý chí xâm lược, đã buộc Mỹ phải xuống thang, ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Paris.
Tiếp đến, thắng lợi của Chiến dịch Đường 9 Nam Lào năm 1971, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 cùng trận “Điện Biên Phủ trên không” ở miền bắc đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris tháng 1/1973.
Đầu xuân 1973, đồng chí Lê Duẩn trực tiếp vào thăm và kiểm tra Đoàn 559, đang xây dựng đường xuyên Việt, đông Trường Sơn, chủ động đón thời cơ. Với tầm nhìn xa cho con đường chiến lược này, đồng chí Lê Duẩn ghi trong Sổ vàng của bộ đội Trường Sơn: “Đường Trường Sơn là con đường của ý chí quyết thắng, của lòng dũng cảm, của khí phách anh hùng. Đó là con đường nối liền nam-bắc, thống nhất nước nhà, là con đường tương lai giàu có của Tổ quốc ta... Chúng ta nhất định tiếp tục đi con đường này để tiến đến thắng lợi hoàn toàn”.
Giữ trọn lời thề của toàn Đảng, toàn dân trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Lễ truy điệu, “quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền nam, bảo vệ miền bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”, đồng chí Lê Duẩn sáng suốt chọn đúng thời cơ kết thúc chiến tranh sớm, không để kéo dài cuộc chiến tranh chống xâm lược thành cuộc nội chiến trong lòng dân tộc.
Trong bức điện ngày 10/10/1974 gửi đồng chí Bảy Cường (Phạm Hùng) về Kết luận đợt một Hội nghị Bộ Chính trị, đồng chí Lê Duẩn viết: “Đối với ta, điều quan trọng của hiệp định Pa-ri không phải là ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần, mà mấu chốt là ở chỗ quân Mỹ phải ra còn quân ta thì ở lại, hành lang Nam Bắc vẫn nối liền, hậu phương gắn với tiền phương thành một dải liên hoàn thống nhất; thế trận tiến công của ta vẫn vững. Ý định của ta là giữ nguyên thế và lực của mình ở miền Nam để tiến lên tiếp tục tiến công địch... Lúc này, chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn”.
Trong Kết luận đợt hai Hội nghị Bộ Chính trị, ngày 7/1/1975 về nhiệm vụ, kế hoạch tác chiến trên từng chiến trường, đồng chí Lê Duẩn chỉ rõ: “Chiến trường Khu 5, Tây Nguyên, dùng 3 sư đoàn quân chủ lực đánh Tây Nguyên, mở thông hành lang nối liền nam Tây Nguyên với đông Nam Bộ, tạo điều kiện để bộ đội chủ lực cơ động nhanh vào miền đông, phối hợp với quân chủ lực Miền để tiến đánh Sài Gòn. Mở trận đầu đánh chiếm Buôn Ma Thuột, thọc thẳng xuống Tuy Hòa, Phú Yên, cắt đồng bằng Khu 5 ra làm đôi, tạo thêm một hướng nữa để tiến nhanh vào phía nam vây ép Sài Gòn”.
Khi lực lượng cách mạng áp đảo, địch đứng trước nguy cơ sụp đổ, Mỹ hoàn toàn bất lực, trong thư gửi anh Bảy Cường (Phạm Hùng), anh Sáu (Lê Đức Thọ), anh Tuấn (Văn Tiến Dũng) ngày 1/4/1975, Lê Duẩn viết: “Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm. Phải hành động “thần tốc, táo bạo, bất ngờ”. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp”.Không chỉ sáng suốt nhìn xa trông rộng và nhạy bén chính trị trong lãnh đạo và chỉ đạo, mà ở những tình huống phức tạp, phải vừa thiết kế vừa thi công, đồng chí Lê Duẩn thể hiện bản lĩnh quyết đoán của người đứng đầu, chịu trách nhiệm cao nhất.
Trước một ngày Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, phát hiện ý đồ sâu xa của một số thế lực nước ngoài thỏa hiệp với nhau tìm cách thương lượng với ta dưới ngọn cờ hòa giải, hòa hợp nhằm ngăn chặn ta giành thắng lợi hoàn toàn, ngày 29/4/1975, đồng chí Lê Duẩn trực tiếp điện cho các đồng chí Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Văn Tiến Dũng, Trần Văn Trà và Lê Trọng Tấn: “Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đang họp thì được tin Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chỉ thị: Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố, tước vũ khí quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập tan triệt để mọi sự chống cự của chúng.
Và ngay trưa 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đồng chí Lê Duẩn thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng gửi điện khen toàn thể cán bộ, chiến sĩ tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào Sài Gòn-Gia Định.
Là người gần gũi giúp việc cung cấp thông tin chiến lược cho công tác chỉ đạo của nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ, trong đó có đồng chí Lê Duẩn, Nhà báo Đỗ Phượng - nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng, Tổng giám đốc TTXVN từng tâm sự về quyết tâm sắt đá của Tổng Bí thư Lê Duẩn về nhiệm vụ Giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước theo di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ vĩ đại.
Đó là vào khoảng tháng 1.1973, Nhà báo Đỗ Phượng được giao viết bài dự thảo chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn. Khi ông đang hý húi viết thì ông Ba vào. Ông bất ngờ hỏi nhà báo Đỗ Phượng: Sai lầm lớn nhất của Nguyễn Huệ là gì? Rồi Tổng Bí thư Lê Duẩn tự trả lời: Cả ba lần ra Bắc, kể cả lần đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ đều trở về quê cũ. Từ những gợi ý đó, ông Phượng hiểu tinh thần chỉ đạo của Tổng Bí thư Lê Duẩn khi đó là phải quyết tâm thống nhất đất nước là nhiệm vụ xuyên suốt và quan trọng nhất.
Tương tự ông kể, năm 1975, đang ngồi viết bài cho Tổng Bí thư Lê Duẩn lần đầu tiên phát biểu ở miền Nam, sau giải phóng. Ông Ba hỏi Nhà báo Đỗ Phượng: Sai lầm thứ hai của Nguyễn Huệ là gì? Rồi ông Ba lại tự trả lời: Sau khi giải phóng thành Gia Định, Nguyễn Huệ để thằng em bất tài, bất lực là Nguyễn Lữ giữ thành. Khi mất thành Gia Định, nhanh chóng để rơi đất nước vào tay Gia Long. Theo tinh thần đó, nhà báo Đỗ Phượng đã tiếp nhận từ bài nói của ông Ba: Không phải Giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước rồi mà quên việc không ngừng tăng cường lực lượng củng cố và xây dựng vùng mới giải phóng.
Tại Đại hội lần thứ IV (1976) và lần thứ V (1982) của Đảng, đồng chí được bầu vào BCH Trung ương, Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư của Đảng. Đồng chí là đại biểu Quốc hội từ khóa II đến khóa VII, từ năm 1978 là Bí thư Quân ủy Trung ương. Hơn 10 năm từ khi đất nước thống nhất, với cương vị là Tổng Bí thư, đồng chí đã cùng BCH Trung ương lãnh đạo Nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội IV và Đại hội V của Đảng đề ra, thực hiện được những thành tựu quan trọng trong công cuộc khôi phục, cải tạo, phát triển KT-XH, phát triển văn hóa theo CNXH và tiến hành thắng lợi các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Là một người giản dị, khiêm tốn, giàu lòng nhân ái, suốt đời hết lòng vì Đảng, vì dân; cả cuộc đời hoạt động gần 60 năm của đồng chí Lê Duẩn gắn liền với quá trình cách mạng nước ta từ những năm 20 đến những năm 80 của thế kỷ XX. Đồng chí đã tham gia hoạt động cả ba miền: Bắc, Trung, Nam, từng trải qua mọi thử thách, gian nan, luôn gần gũi cán bộ, chiến sĩ và nhân dân lao động. Từ cuối những năm 30 cho đến khi qua đời, đồng chí đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo quan trọng của Đảng, đặc biệt từ năm 1960 đến năm 1986, trên cương vị là Bí thư thứ nhất, rồi Tổng Bí thư BCHTW Đảng, đồng chí đã có những đóng góp to lớn vào sự lãnh đạo của Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác./.
* Bài viết có sử dụng một số tư liệu của đồng nghiệp!